Sài Gòn những ngày này mang trên mình bộ mặt xanh xao, ủ dột. Từ một chốn thị thành ồn ào, huyên náo, người xe tấp nập, với bao nỗi bon chen, bộn bề, thì bỗng chốc tan đi, nhanh lắm, bởi những con virus, cũng bé lắm, nhỏ lắm, nhưng chết người. Tôi chợt nhớ những sớm nào đó thức dậy, thấy chằng chịt dọc ngang những sợi dây đỏ trắng, án ngữ bằng cái lệnh phong tỏa lạnh lùng. Rồi lòng chùng xuống, hoang mang, bàng hoàng, thầm nghĩ, lần này sẽ là bao lâu?
Chẳng biết từ bao giờ, người ta bắt đầu nhìn nhau với cái nhìn đầy ái ngại, qua cái lớp khẩu trang kia, là biết bao câu chuyện của những đôi mắt biết khóc, biết cười, biết âu lo và cũng biết hy vọng, về một ngày mai với gam màu, ít ra sẽ có chút gì, tươi sáng hơn hôm nay…
Những ngày Sài Gòn bệnh, là những ngày chênh vênh, chao đảo của bao con người đang tha hương, tá túc, cắm rễ chốn này. Tôi thấy ẩn hiện đâu đó những khuôn mặt đang gắng gượng quẫy cựa như loài cá mắc cạn, cốt vớt vát lại chút niềm tin, chút hy vọng, thậm chí, chút ngày sống ít ỏi còn lại cho mình.
Thế rồi, giữa muôn trùng vây khổ đau, bất lực, tuyệt vọng của thời cuộc, những dang dở của cuộc vui, sự xa xôi của ngày tương phùng, sự lặng thinh của hồi chuông mà ngày ấy vẫn luôn vọng về từ giáo đường. Tắt lịm rồi ngọn nến ngày nào vẫn lung linh nơi nguyện đường bé nhỏ, nhưng dường như, giữa những hỗn độn, hiểm nguy ngoài kia, vẫn đang từng ngày cháy lên những ngọn nến khác, là những ngọn nến sống, chịu hao mòn đi để mang lại nguồn sáng cho đời, nguồn sáng vĩnh cửu, không bao giờ tàn lụi.
Tôi thấy họ – những nữ tu, với dáng người nhỏ thó, gầy tong, thấp thoáng trong màn mưa giữa đường phố Sài Gòn vắng lặng, trao đi từng thùng mì, con cá, bó rau, cho tất cả những ai tìm đến. Họ cháy giữa làn mưa, và tôi biết, không một giông gió nào có thể thổi tắt được sự dấn thân, kiên cường ấy.
Tôi thấy họ – những tình nguyện viên hăng say lên đường, miệt mài ngày đêm nơi tuyến đầu cơn dịch, hành trang mang theo vỏn vẹn chỉ là một đôi tay biết đưa ra, đôi chân rảo bước không ngừng nghỉ, và quả tim biết trắc ẩn, cảm thương trước những hình hài, khuôn mặt khổ đau của Đức Kitô, hiện diện nơi những bệnh nhân không người thân săn sóc. Những chiến sĩ ấy sống cùng, sống với và sống cho những linh hồn đang vùng vẫy giữa ranh giới của sự hợp tan, sống chết. Có lẽ “Chính lúc quên mình, là lúc gặp lại bản thân”, chính những ngày như thế, tôi chợt nhận ra tình yêu và lòng nhiệt thành với ơn gọi của họ một lần nữa được hun nóng và cháy rực rỡ hơn bao giờ hết.
Tôi thấy họ – những người trẻ sống chứng tá trong lòng Giáo Hội, mặc kệ những bủa vây, trần trụi của cơn dịch, những người trẻ ấy vẫn ngày ngày tìm kiếm nguồn lương thực từ những miền xa xôi, đón nhận, rồi trao gửi lại cho tha nhân quanh họ. Biết bao chuyến xe rau, chuyến hàng cứu trợ, từ vùng miệt thứ ngày đêm lăn bánh trên cung đường nay vắng bóng người xe. Mỗi vòng lăn của bánh răng là mỗi vòng tròn kết nối trái tim của nhân loại với nhau, thật gần.
Và tôi thấy những siêu thị 0 đồng, tôi thấy xe hỗ trợ thực phẩm lưu động, tôi thấy những bữa cơm được trao đi, thấy niềm tri ân nhận lại, tôi thấy Sài Gòn ôm người những lúc bình yên, tôi thấy người ôm nhau giữa khi Sài Gòn sóng gió. Những cố gắng vá lành vết thương đang hoen máu vì chịu đựng bao nỗi đau tột cùng vì sự mất mát, vì cuộc chia ly.
Tôi tự hỏi, rốt cuộc đi qua những trầm kha ấy, tôi, bạn, chúng ta, còn giữ lại gì trong nhau? Cũng như ơn Cứu Độ phải đi từ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu thế nào, tôi tin nỗi đau mà chúng ta đang gồng gánh, chống chọi hôm nay cũng sẽ được Ngài vỗ về và chữa lành như thế. Cơn dịch rồi sẽ qua đi, nỗi đau rồi đây sẽ biến nên niềm hoan hỷ. Và sau tất cả, tôi tin, chúng ta rồi sẽ quên đi vết thương này, tất cả rồi sẽ chìm vào quên lãng, duy chỉ còn tình Chúa, tình người, là còn mãi với thời gian…